I. TÊN GỌI DI TÍCH:
Đền Thiên Tiên Thần Nữ đã có từ xa xưa để thờ Mẫu theo sử sách ghi nhận. Đại nam nhất thống trí và theo truyền thuyết là vị thần nữ có phép thần thông hạ giới giúp dân độ thế. Nhân dân khắp nơi trong thiên hạ tôn phong bà là Mẫu nghi thiên hạ. Đền Thiên Tiên Thần Nữ là tên gọi từ khi xây dựng đến nay không thay đổi.
II. ĐỊA ĐIỂM DI TÍCH:
Đền Thiên Tiên Thần Nữ tọa lạc trên vị trí cửa ngõ phía Bắc thành phố Thanh Hóa, sát cạnh với quốc lộ 1A; giáp với ngã tư Phan Chu Trinh và đường Trần Phú, Trường Thi thuộc phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa.
Qua tấm bia Thiên Tiên từ ký cỡ lớn còn ghi chung vào năm Hoàng triều Thiệu trị thứ 13 năm 1843 được trùng tu lần thứ nhất. Đền Thiên Tiên Thần Nữ trước đây thuộc làng Đông lạc, Tổng Bố Đức, Phủ Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (trước là phố Rue Panh Bert, sau đổi thành phố Trần Hưng Đạo, phố Trần Phú nay là phố Triệu Quốc Đạt, phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa). Đến triều đại vua Thành Thái thứ 14 (1902) đã lại được tu sửa lần 2. Đền bao gồm một quần thể rộng lớn cả phía đông và phía Tây quốc lộ 1A. Theo văn bia mô tả quy mô đền rất đẹp có miếu võ, thánh đường, tiền đường, hành lang tả hữu, tam quan, lầu chuông, hồ, non bộ, tường bao quanh và đầy đủ đồ pháp khí. Văn bia cũng ghi rõ danh sách những người từ tổng đốc đến chánh tổng, lý trưởng, đại khoa, tiến sĩ, dân thường
những người có công quyên góp tổ chức xây dựng đền. Phía đông là Đền chính, có tam quan, lầu voi phục, có miếu võ, có thánh đường, có tiền đường, có hậu cung, có 2 bên hành lang tả, hữu, có lầu chuông, có nhà trạm đón thập phương về chiêm ngưỡng, lễ bái cầu phúc
Phía tây gồm 1 quần thể Đình làng Miếu thờ, Hồ nước, núi non bộ, cây cổ thụ, bia đá, khánh đá, hệ thống tường bao bọc khu vực này. Đến nay qua 3 cuộc chinh chiến chống Pháp, Nhật, Mỹ cùng với năm tháng Đền đã bị tàn phá nhiều. Bên phía Đông Quốc lộ 1A, công an thành phố cũ xây dựng khu làm việc và sinh hoạt từ cuối thập kỷ 19 (khoảng năm 1993).

Bản vẽ mặt tiền Đền Thiên Tiên trước năm 1964 đã vẽ lại theo Y bản


Đền Thiên Tiên Thần Nữ
III. NHÂN VẬT ĐƯỢC THỜ
1. Thờ Mẫu Liễu Hạnh.
Để tỏ rõ sự tôn kính, ngưỡng vọng của dân, vị mẫu xuất xứ là tiên nữ con trời, khai giáng thế là vị thần linh thiêng. Truyền thuyết kể rằng vào năm 1556 có một nàng tiên là Quỳnh Nương ở trên trời (Tiên Thiên) phạm lỗi đánh vỡ chén ngọc của Vua cha Ngọc Hoàng bị đày xuống trần gian đầu thai vào nhà họ Lê Thái Công ở làng Vân Cát. Tiên nữ ba lần giáng trần, lần thứ ba xuống ở hẳn dưới hạ giới. Tiên nữ là vị thần có phép thần thông quảng đại biến hóa khôn lường dẹp ác, trừ tai, cứu khổ cứu nạn. Triều vua Lê Huyền Tông (1633-1671) không chịu nổi hiện tượng khác thường này, đã cho quan quân vào phá đền Sòng (Thanh Hóa) bị chúa Liễu hiển thánh làm cho quan quân khốn đốn, triều đình lập tức phải cho lập lại đền thờ Bà. Công trạng của bà được nhân dân tôn phong là Mẫu nghi thiên hạ, là Thánh Mẫu đứng đầu các vị mẫu ở nước ta, được vua Lê Huyền Tông phong là Chế thắng hòa Đại Vương thượng thượng đẳng tối linh thần mã hoàng công chúa là vị thần tối cao nhất, tước Đại Vương, tài ba chế ngự, chiến thắng mọi trở lực.
Ngài là Mẫu đại diện cho các Mẫu có trong thiên hạ, đã được nhà nước phong kiến Việt Nam qua các thời địa ghi nhận công đức từ giữa thế kỷ 15-16. Với nội dung thờ mẫu là tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam, mang tính cộng đồng trong phạm vi cả nước, được thừa nhận và gắn bó trong tâm thức người dân.
2. Thờ Tứ vị Thánh Nương:
Đền Thiên Tiên còn là nơi thờ tứ vị thánh Nương (tứ phủ), là những mẫu được nhân dân thừa nhận trong hệ thống thờ Mẫu của văn hóa tín ngưỡng dân tộc Việt Nam. Tứ vị Thánh Nương là bốn vị nữ thần biểu tượng của thế giới thiên nhiên, gồm: Mẫu Thiên đại diện cho trời, thuộc hành hỏa; Mẫu Địa đại diện cho đất, thuộc hành thổ; Mẫu Thoải đại diện cho nước, thuộc hành Thủy; ; Mẫu Thượng Ngàn đại diện cho cây cỏ, thuộc hành mộc, hành kim, đó là 5 mầu áo Mẫu thường mặc trong các phủ thờ: Mẫu Thiên mặc áo đỏ, Mẫu Địa mặc áo vàng, Mẫu Thoải mặc áo đen và Mẫu Thượng Ngàn mặc áo xanh, áo trắng. Theo quan niệm thuyết âm dương ngũ hành, tượng trưng cho trời, đất, nước, cây cỏ, núi non. Đó là bốn yếu có thiên nhiên sáng tạo và duy trì sự sống muôn loài, đã được nhân dân và các triều đại Nhà nước phong kiến Việt nam tôn trọng với ý nghĩa tích cực và sự cầu mong cho sự sống trường tồn.
III. KHẢO SÁT DI TÍCH ĐỀN THIÊN TIÊN
1. Tấm bia đá "Tiên thiên từ Ký" đựng triều Vua Thiệu Trị thứ 3 (1843) hiện lưu giữ tại đền ghi "Đền Thiên Tiên thần nữ đã có từ xa xưa". Từ lúc rời trấn lỵ từ lòng Dương Xá (xã Thiệu Dương, Đông Sơn) về Thọ Hạc (1802) cách năm dựng lên là 39 năm, như vậy niên đại đền Tiên Thiên được xây dựng vào cuối thế kỷ 17. Sau hơn 100 năm đền xuống cấp, năm dựng bia Tiên Thiên từ Ký cũng là lần trùng tu lớn (1843). Hơn nửa thế kỷ sau, triều Vua Thành Thái thứ 14 (1902) đền Tiên Thiên được sửa chữa lần thứ hai gồm Thượng điện, bái đường.
Bia Thiên Tiên từ Ký mô tả quy mô đền rất đẹp :" tách biệt có miếu võ, có chính đường, tiền đường, hàng lang hai bên tả hữu. Ngoài cửa hồi môn có tam quan, ở trên có lầu chuông, xây tường xung quanh lò hương ở phía trước lầu đá, có hồ có núi non bộ. Tạc tượng đúc chuông và có đầy đủ pháp khí ..." Trải qua hai cuộc chiến tranh chống giặc Pháp, giặc Mỹ xâm lược, ngôi đền đã bị hủy hoại. Nhân dân phường Điện Biên và những người có hảo tâm đã xây dựng lại đền vối quy mô gồm 3 gian, tiền đường, hậu cung và ba điện thờ. Tấm bia đá bị vùi lấp đã được tìm lại và dựng ngay ngắn trước đền.
Bia là khối đá xanh nguyên, có kích thước: Cao 2,35m; rộng 1,43 m; dày 0,28 m; Đế bia là khối đá nguyên hình khối chữ nhật, Dài: 1,92m, rộng: 1,43m; cao: 0,40 m; Hai mặt bia đều khắc chữ Hán to, mặt trước bia ghi một dòng chạy dọc bên phải 4 chữ " Thiên Tiên từ Ký" (bia ghi về đền Thiên Tiên", tiếp đến có 14 dòng chữ, nội dung, tả lại cảnh đẹp và cũng là bố cục mặt bằng công trình Đế dốc quân vụ, Thiên Lý vương Tôn thất Hân chủ trì và cùng một số quan chức tỉnh Thanh Hóa như : Bố chánh, Ấn Sát, Lanh Binh, phó lãnh binh soạn văn bia
Hiệu đính bia: Gia hàn lâm viện, thị giảng học sĩ ngự Thanh Hóa, đốc học đồng tiến sĩ khoa nhâm thìn Vũ Công Độ.
Trông coi việc tu bổ: Hàn lâm viện biện tu hậu bổ tri phủ đỗ dòng tiến sĩ khoa Tân sửu Bùi Tuấn
Võ vệ phó ứng Võ Văn Thân
Tú tài Võ Đình Lê (viết chữ)
Mặt sau bia : Ghi danh họ tên những người cung tiến xây đền khoảng 400 người (gồm 30 dòng chữ Hán, mỗi đồng khoảng 50 chữ còn đọc rõ).
Bia và bệ đã được dựng ngay ngắn bảo quản tại đền Thiên Tiên một công trình kiến trúc có niên đại ít nhất 200 năm.
2. Ở phía sau đền có cây đa to vào loại bậc nhất của những cây cổ thụ ở thành phố Thanh Hóa. Đây là loại cây dương thụ (cây đa, cây dung hợp quý giá) được nhân dân tôn thờ.
3. Vào thế kỷ 17 (1789) Vua Quang Trung, Nguyễn Huệ tiến quân ra bắc tiêu diệt 20 vạn quân nhà Thanh. Người có đóng quân tại làng Hạc (nay thuộc phường Đông Thọ, TP Thanh Hóa), mục đích nghỉ chân qua cuộc viễn chinh từ miền cận trung ra Thanh Hóa cũng là để chiêu mộ thêm quân lính. Đêm lưu lại xứ Thanh, Vua Quang Trung có nằm mộng gặp nhị vị tiên nữ ban cho bánh giầy dò là quân lương, ngày hôm sau khi tiếp tục hành quân thì đôi voi đầu đàn không chịu đi tiếp. Nhận thấy điềm báo đây là nơi đất tối Linh nên nhà Vua đã hạ lệnh lập hương án cầu thần nữ phò giúp. Mùa xuân năm Kỷ Dậu, sau đại thắng Vua Quang Trung trở về lễ tạ. Để ghi nhớ sự kiện này, nhân dân đã tạo tác 2 ông voi đá to bằng voi thật để chầu tại đền. Hiện 2 ông voi đá của đền đang lưu giữ tại bảo tàng Thanh Hóa. Ban quản lý đền có đúc 2 voi đá bằng xi măng theo mẫu tượng của 2 voi đá cũ để chầu tại đền.
IV. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ
Đền đã được công nhận di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh cấp tỉnh theo quyết định của Sở văn hóa thể thao tỉnh Thanh Hóa số 485/QĐ-VHTT ngày 14/12/1999. Qua tấm bia đá Thiên Tiên Từ ký hiện đang dựng ở phía bắc cổng dền, đây là tư liệu gốc lịch sử quý giá xác định niên đại chính xác đã trùng tu 2 lần làm nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của Nhân dân và du khách thập phương.
Đền Thiên Tiên Thần nữ ngày nay đang được lãnh đạo các cấp và các ngành chuyên môn quan tâm, nghiên cứu tu bổ trả lại đúng tầm vóc lịch sử văn hóa đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tâm linh./.
Nguồn: Bảo tàng tổng hợp Thanh Hóa, Báo Thanh Hóa!